Kỹ thuật phim câm Phim_câm

Intertitle

Vì các bộ phim câm không có tiếng động hoặc lời thoại đồng bộ vì vậy để dẫn chuyện hoặc thoại ở những cảnh phim quan trọng, người ta sử dụng các bìa cứng có ghi chữ gọi là intertitle (bảng nội đề). Vì tầm quan trọng của các intertitle, những bìa cứng này được thực hiện khá cầu kì về mặt thẩm mỹ, nhất là phông chữ, khuôn hình, và trở thành một bộ phận không thể thiếu của các công đoạn sản xuất phim câm.

Nhạc sống và âm thanh

Thông thường để các bộ phim câm trở nên sinh động, trong quá trình chiếu phim thường có một ban nhạc sống đi kèm để biểu diễn các đoạn nhạc ở các cảnh phim cần thiết. Ngay buổi chiếu đầu tiên của anh em Lumière đã có sự xuất hiện của một nhạc công piano[1]. Nhạc sống nhanh chóng trở thành bộ phận không thể thiếu của mỗi bộ phim, với các rạp phim nhỏ thường nhạc sống chỉ được thực hiện bởi 1 nhạc công piano, còn ở những rạp chiếu bóng lớn, hiện đại, thường người ta bố trí cả một nhóm nhạc hoặc đôi khi là một dàn nhạc thực sự để biểu diễn đồng thời với bộ phim. Vào giai đoạn phát triển nhất của kỷ nguyên phim câm, công nghiệp điện ảnh thậm chí đã trở thành ngành công nghiệp tuyển dụng nhiều nhạc công nhất.

Bên cạnh nhạc sống, các nhà điện ảnh cũng tìm cách thêm thoại hoặc lời hát bằng các nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp tại rạp. Có thể kể tới những fitas cantatas, các vở operetta được thu hình của điện ảnh Brasil thời kì đầu, trong đó các ca sĩ hát ngay sau màn ảnh các bài hát có trên phim[2]. Phim câm Nhật Bản lại được đặc trưng bởi các benshi, những người dẫn chuyện có mặt trực tiếp ở rạp để đọc các đoạn thoại hoặc các đoạn dẫn chuyện cần thiết, với các bộ phim nước ngoài, những benshi lại đóng vai trò người phiên dịch[3]. Chính sự nổi tiếng của các benshi mà phim câm vẫn tiếp tục được sản xuất trong thập niên 1930 ở Nhật Bản.

Tốc độ khung hình

Cho đến khoảng năm 1925, phần lớn phim câm có tốc độ khung hình (frame rates) chậm hơn tốc độ khung hình của các phim có tiếng sau này, thường là từ 16 cho tới 23 khung hình một giây, tùy thuộc hãng và năm sản xuất (tốc độ phổ biến của phim có tiếng là 24 khung hình một giây).

Kỹ thuật diễn xuất

Vì không có âm thanh hoặc thoại vì vậy kỹ thuật diễn xuất trong các bộ phim câm đặc biệt chú trọng ngôn ngữ hình thể và biểu hiện vẻ mặt của diễn viên. Chính vì lý do này mà các bộ phim hài trở thành thể loại phổ biến trong kỷ nguyên phim câm hơn là các bộ phim tình cảm do việc truyền đạt cảm xúc hoặc ý tưởng hài hước tới khán giả là dễ dàng hơn. Cũng chính vì sự khác biệt này nên khi phim có tiếng xuất hiện, rất nhiều diễn viên ngôi sao không thể làm quen với việc vừa diễn xuất hình thể vừa đọc thoại đã nhanh chóng trở nên lỗi thời và bị quên lãng.

Liên quan